7.1. Khái quát
7.1.1. Khái niệm
Như đã trình bày trong chương 1: theo Bộ Lao động Hoa Kỳ, người lao động thế kỷ 21 tại Hoa Kỳ cần có 13 kỹ năng thiết yếu, trong đó kỹ năng tư duy sáng tạo được xếp hàng đầu. Trong cuộc sống nói chung và trong công việc nói riêng, nếu thiếu tư duy sáng tạo thì con người có thể sẽ gặp khó khăn khi giải quyết những vấn đề nan giải, đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính đột phá và hoàn toàn mới lạ.
Tư duy sáng tạo là sự khác biệt, ưu thế tuyệt đối của loài người so với các sinh vật khác. Tư duy sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng, nếu như không nói là quyết định đối với quá trình tiến hóa và phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là trong thế kỷ 21 này- khi mà nền kinh tế tri thức (với hàm lượng sáng tạo chiếm ưu thế tuyệt đối) lên ngôi. Chính nhờ có sáng tạo mà qua từng thời đại, con người chế tạo ra vô số thiết bị để “tăng tiến” khả năng của con người. Như máy bay là sự tăng tiến khả năng tiếp cận không trung, điện thoại là sự tăng tiến cho khả năng nói và nghe.
Nhưng “Tư duy sáng tạo” là gì? Theo các nhà tâm lý học thì tư duy sáng tạo được xem là dạng hoạt động trí não cao nhất của con người. Năng lực sáng tạo là cốt lõi của tư duy sáng tạo, làm tiền đề bên trong của hoạt động sáng tạo, nó được xác định từ chất lượng đặc biệt của các quá trình tâm lý bao gồm nhiều quá trình gắn kết như: quá trình trí nhớ, tư duy, xúc cảm. Tư duy sáng tạo là kiểu giải quyết vấn đề dựa trên quá trình động não để tìm ra những phương án khả thi, rồi rút ra được phương án tối ưu dựa trên các phương án đã nêu ra. Điều này thoạt đầu nghe có vẻ đơn giản nhưng thực ra là cả một quá trình rất phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực cao độ của hoạt động trí óc.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tư duy sáng tạo. Có thể tham khảo của Torrance (1962): định nghĩa “Tư duy sáng tạo là một quá trình tạo ra ý tưởng hoặc giả thuyết, thử nghiệm ý tưởng này đi đến kết quả … Kết quả này có ít nhiều mới mẻ, có chút ít gì đó trước đây con người chưa bao giờ nhìn thấy, chưa có ý thức về nó”. Nói ngắn gọn thì bản chất sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất.
Như vậy tiêu chí sáng tạo ở đây là “tính mới lạ” và “tính có giá trị” (có ích lợi hơn, tiến bộ hơn so với cái cũ).
7.1.2. Tầm quan trọng của kỹ năng tư duy sáng tạo
“Sáng tạo là con đường ngắn nhất dẫn đến thành công”.
Những thay đổi nhanh chóng của thời đại ngày nay đặt chúng ta trước yêu cầu rằng các vấn đề phải được giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả. Và sáng tạo chính là con đường ngắn nhất dẫn đến thành công. Thật khó để nói rằng những kiến thức chúng ta có sẽ giải quyết các vấn đề một cách sáng tạo trong tương lai. Tất cả chúng ta phải tiếp tục học trong suốt cuộc đời, nhưng những kiến thức chúng ta thu nhận được cũng không đảm bảo rằng sẽ giải quyết tốt những vấn đề gặp trong tương lai. Chỉ có khả năng tư duy sáng tạo mạnh mẽ mới cung cấp những giải pháp đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại vài tương lai.
Tư duy sáng tạo không chỉ chỉ cần thiết với những người đang làm việc trong lĩnh vực quảng cáo, marketing hay nghệ thuật, mà khả năng tư duy sáng tạo còn cần thiết cho việc phát triển công việc và thành công dù bạn làm việc trong bất kỳ ngành nghề nào. Chẳng hạn như, với một nhà hóa học nếu có khả năng sáng tạo, anh ta có thể phát minh ra những phương pháp ứng dụng các thiết bị như lò vi sóng vào lĩnh vực tổng hợp hợp chất hữu cơ, hay chiết suất tinh dầu từ thực vật. Một giảng viên sáng tạo sẽ không bao giờ thiếu những phương pháp hay để truyền đạt kiến thức cho sinh viên một cách hiệu quả nhất: như lớp học đảo ngược (flipped classroom), thảo luận nhóm, video clips. Một người bán hàng sáng tạo sẽ luôn tràn ngập ý tưởng để tiếp cận khách hàng: họ có thể biến một khách hàng chỉ có ý định mua chiếc cần câu thành khách hàng mua chiếc cano để đi câu.
Tính sáng tạo và lối suy nghĩ thông minh được đánh giá cao ở bất cứ công việc nào. Thậm chí công việc mang tính kỹ thuật nhất cũng đòi hỏi khả năng suy nghĩ thoát ra khỏi khuôn khổ. Vì vậy đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của việc giải quyết vấn đề theo cách sáng tạo. Bạn có thể đang phải làm một công việc chán ngắt, buồn tẻ, hãy cố gắng khắc phục nó theo cách hiệu quả hơn. Khi một vấn đề khiến người ta phải miễn cưỡng bắt tay vào làm, hãy nghĩ ra một giải pháp sáng tạo hơn. Nếu không được, ít ra bạn đã từng thử nó. Ở tầm vĩ mô, theocác nghiên cứu về sự phát triển kinh tế trong giai đoạn trước thế kỷ 21thì: các cá nhân, công ty hoặc quốc gia đã trở nên giàu thường có một hoặc một số trong bốn nguyên nhân sau:
1. Có tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn;
1. Sinh ra đã giàu (như do thừa kế tài sản), có nguồn vốn tính theo đầu người cao;
2. Có công nghệ tiên tiến hơn các đối tượng khác xung quanh;
3. Có nguồn nhân lực tốt hơn những đối tượng xung quanh.
Khi bước vào thế kỷ 21, một câu hỏi đặt ra là: nguyên nhân nào làm cho một cá nhân, công ty hoặc quốc gia thành công về kinh tế? Câu trả lời cho vấn đề này là: ba nguyên nhân đầu càng ngày càng giảm bớt vai trò của chúng, mà nguồn nhân lực (mà cốt lõi là nguồn nhân lực có tính sáng tạo cao) sẽ là động lực dẫn dắt. Sáng tạo thật sự là nguyên nhân chính cho sự thành công nếu không nói là duy nhất ở thế kỷ 21.
Có thể thấy rõ hơn điều này khi nhìn vào sự phát triển một số quốc gia như: cuối thế kỷ 19, Argentina là một trong những nước giàu nhất thế giới (đến thập niên 1920’s, họ vẫn còn giàu ngang với nước giàu có ở châu Âu). Ngày nay, Argentina chỉ được xếp vào danh sách các nước đang phát triển, thậm chí suýt bị vỡ nợ. New Zealand đã có lúc đứng thứ ba thế giới về thu nhập tính theo đầu người. Hiện nay, New Zealand được xếp vào cuối danh sách của các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Với Việt Nam, dù tài nguyên khá phong phú nhưng vẫn ở top dưới thế giới. Ở thế kỷ 21, lực lượng lao động tốt hơn những người xung quanh được hiểu cao hơn: ngoài việc được đào tạo bài bản để có các kỹ năng nghề nghiệp tiên tiến, lực lượng lao động còn phải có thêm các kỹ năng mới, đặc biệt trong đó là các kỹ năng sáng tạo và đổi mới.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy một số nguyên nhân dẫn đến việc “Thế kỷ 21 là thời đại của tư duy sáng tạo (tương ứng với nền kinh tế tri thức)”, chúng bao gồm:
1. Thế kỷ 21 là thời đại cạnh tranh tri thức. Trong các lĩnh vực cần tri thức, chính sáng tạo làm tăng giá trị thặng dư của tri thức, làm cho tri thức đem lại nhiều ích lợi hơn.
2. Các quốc gia, tổ chức, công ty càng ngày càng thấy sự cần thiết phải nhanh chóng tái tạo, tái sáng chế, đổi mới chính mình để phát triển. Sự cạnh tranh toàn cầu đòi hỏi mỗi công ty,tổ chức, quốc gia phải huy động các ý tưởng, tài năng và các tổ chức sáng tạo. Công ty, tổ chức, quốc gia nào không coi trọng đúng mức điều này sẽ mất đi lợi thế về chiến lược
3. Lĩnh vực dịch vụ, sản xuất sản phẩm hàm lượng chất xám cao phát triển, đòi hỏi nhiều người làm việc công việc ngày càng sáng tạo và những người tài thường thay đổi/có cơ hội thay đổi chỗ làm việc hơn bao giờ hết.
4. Có sự thay đổì quan hệ trên thị trường: khách hàng bây giờ có nhu cầu, yêu cầu cao hơn; so sánh, đối chiếu nhiều sản phẩm có tính năng tương tự, chứ không còn là khách hàng trung thành như trước đây. Chỉ có sáng tạo mới tạo ra được sự khác biệt.
5. Vì quản lý đang thay đổi vai trò từ kiểm soát sang giải phóng sức sáng tạo. Đây chính là tư duy quản lý mới. Tư duy sáng tạo sẽ mở rộng quá trình sáng tạo, đề xuất nhiều phương án độc đáo, sáng tạo, và triển khai các hệ thống cần thiết cho việc thực hiện giải pháp. Tư duy sáng tạo sẽ giúp cho mọi người có suy nghĩ thông minh hơn; giúp cho mọi người làm việc hiệu quả hơn: đạt kết quả cao nhất trong thời gian ngắn nhất.
7.2. Tư duy sáng tạo
7.2.1. Thang tư duy Bloom
Thang cấp độ tư duy Bloom (hay thang tư duy Bloom, hoặc khung phân loại nhận thức Bloom) được xem là công cụ nền tảng để xây dựng mục tiêu và hệ thống hóa các cấp độ tư duy. Thang cấp độ tư duy do Benjamin S. Bloom thiết lập (1956).
Sau đó được điều chỉnh, và gọi là Thang Bloom chỉnh sửa (Bloom’s Revised Taxonomy) bao gồm:
1. Nhớ (Remembering)
2. Hiểu (Understanding)
3. Vận dụng (Applying)
4. Phân tích (Analyzing)
5. Đánh giá (Evaluating)
6. Sáng tạo (Creating).
Các cấp độ tư duy này được khái quát như sau:
1. Nhớ:
Có thể nhớ lại các điều đặc biệt hoặc tổng quát, trọn vẹn hoặc một phần các quá trình, các cấu trúc. Ở cấp độ này cần nhớ lại đúng điều được hỏi đến, ví dụ lặp lại đúng một định luật mà chưa cần phải giải thích hay sử dụng định luật ấy. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này bao gồm: thuyết trình, trình bày, mô tả, liệt kê.
2. Hiểu:
Ở cấp độ nhận thức này cần nắm được ý nghĩa của thông tin, thể hiện qua khả năng diễn giải, suy diễn, lięn hệ. Nhý: giải thích một định luật; viết tóm tắt một chýőng mục; thuyết trình một quan điểm. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này bao gồm: giải thích, phân biệt, khái quát hóa, cho ví dụ…
3. Ứng dụng:
Có thể áp dụng, vận dụng thông tin đã biết vào một tình huống, một điều kiện mới. Ví dụ: Vận dụng một định luật để giải thích một hiện tượng; áp dụng các công thức, các định lí để giải một bài toán; thực hiện một thí nghiệm dựa trên một qui trình. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này bao gồm: vận dụng, áp dụng, tính toán, chứng minh, giải thích, xây dựng…
4. Phân tích:
Có thể chia các nội dung, các thông tin thành những phần nhỏ để có thể chỉ ra các yếu tố, các mối liên hệ, các nguyên tắc cấu trúc của chúng. Ví dụ: Lý giải nguyên nhân thất bại của một loạt thực nghiệm; hệ thống hóa ưu và ngược điểm của quá trình hoạt động; xây dựng biểu đồ phát triển của một doanh nghiệp. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này bao gồm: phân tích, lý giải, so sánh, lập biểu đồ, phân biệt, hệ thống hóa…
5. Đánh giá:
Có thể đưa ra nhận định, phán quyết đối với một vấn đề dựa trên các chuẩn mực, các tiêu chí đã có. Ví dụ: Phản biện một nghiên cứu, một bài báo; đánh giá khả năng thành công của một giải pháp; chỉ ra các điểm yếu của một lập luận. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này bao gồm: đánh giá, cho ý kiến, bình luận, tổng hợp, so sánh…
6. Sáng tạo:
Đạt được cấp độ nhận thức cao nhất này có thể tạo ra cái mới, xác lập thông tin, sự vật mới trên cơ sở những thông tin, sự vật đã có. Ví dụ: Thiết kế một mẫu nhà mới; xây dựng hệ thống các tiêu chí để đánh giá một hoạt động; đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế; xây dựng cơ sở lý luận cho một quan điểm. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này bao gồm: thiết lập, xây dựng, thiết kế, đề xuất…
Qua đó, có thể thấy tư duy sang tạo chính là cấp độ cao nhất của tư duy mà các hoạt động học tập, nghiên cứu cần hướng tới.
7.2.2. Các cấp độ tư duy sáng tạo
Bất kỳ nhóm làm việc, đơn vị nào cũng muốn đội ngũ của mình biết làm việc sáng tạo. Bản thân các thành viên cũng hiểu là nếu phát huy được tính sáng tạo trong công việc thì họ sẽ nhanh chóng thuận lợi; đạt được nhiều thành tựu tốt đẹp. Nhưng khi đề cập chi tiết hơn thì khái niệm tư duy sáng tạo thì thường mọi người chỉ hiểu đại khái, chung chung; không nắm rõ các cấp độ, mức độ khác nhau của quá trình này.
Theo các chuyên gia về tư duy của con người, năng lực tư duy sáng tạo được thể hiện qua ít nhất năm cấp độ dưới đây.
1. “Nhận ra nhu cầu cần có cách tiếp cận mới”: là cấp độ thấp nhất (cấp độ 1), tương ứng với khi biết: – Xem xét lại cách tiếp cận truyền thống và tìm các giải pháp có thể có; – Sẵn sàng đón nhận ý tưởng mới;
2. “Thay đổi các cách tiếp cận hiện có”, là cấp độ cao hơn (cấp độ 2), xuất hiện khi biết: – Phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của các cách tiếp cận hiện có; – Thay đổi và làm cho các cách tiếp cận hiện có thích hợp hơn với nhu cầu;
3. “Đưa ra cách tiếp cận mới” là cấp độ 3, tương ứng với khả năng biết: – Tìm kiếm các ý tưởng hoặc giải pháp đã có tác dụng trong các môi trường khác để áp dụng chúng tại doanh nghiệp của mình; – Vận dụng các giải pháp đang có theo cách mới lạ hơn nhằm giải quyết vấn đề với hiệu quả cao hơn;
4. “Tạo ra khái niệm mới” là cấp độ cao hơn nữa (cấp độ 4) là khi có được khả năng: – Tổng hợp các khái niệm cần thiết để định hình một giải pháp mới; – Tạo ra các mô hình và phương pháp mới cho đơn vị;
5. “Nuôi dưỡng sự sáng tạo” là cấp độ cao hơn cả (cấp độ 5). Năng lực này chỉ có ở một số ít nhà quản lý, nghiên cứu, bao gồm:
– Khuyến khích mọi người thử nghiệm ý tưởng mới khác hẳn cách làm truyền thống;
– Hỗ trợ cho việc thử nghiệm ý tưởng mới nhằm biến ý tưởng thành hiện thực.
7.2.3. Rào cản đối với tư duy sáng tạo
Sự sáng tạo của con người là vô hạn, nhưng không phải ai cũng dám áp dụng những ý tưởng sáng tạo của mình vào thực tế vì nhiều lý do khác nhau. Lý do chính là vì trong quá trình tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu theo định hướng sáng tạo, mỗi cá nhân, tập thể có thể phải đối mặt với nhiều rào cản, đặc biệt là các rào cản về tâm lý, tâm thức. Chính những điều đó vô tình trở thành rào cản tư duy sáng tạo. Vậy những nguyên nhân cản trở tư suy sáng tạo là gì, làm thế nào để phát hiện ra và phá vỡ nó?
Có thể liệt kê ra một số nguyên nhân như sau:
1. Lối mòn tư duy:
Càng trưởng thành, con người càng có nhiều định kiến về mọi thứ. Các định kiến đó là do các lối mòn tư duy đã hình thành trong cuộc sống. Những định kiến này thường làm cho chúng ta không nhìn nhận được thấu đáo những gì mà chúng ta đã biết hay tin tưởng là có thể xảy ra. Chúng ngăn cản sự thay đổi và tiến bộ. Đó là những lối nghĩ thông thường. Đó là sức ỳ của tư duy do đã quen suy nghĩ theo lối mòn.
2. Tin vào kinh nghiệm:
Khi thực hiện một kế hoạch hay quyết định một vấn đề gì đó, có thể người ta không cần suy nghĩ, tìm giải pháp tốt nhất, ý tưởng mới, mà lại cho rằng những việc đó mình đã làm nhiều lần rồi, không có gì phải suy nghĩ, đắn đo. Chính sự quá tin tưởng vào kinh nghiệm đó vô tình giết chết tư duy sáng tạo của chính họ. Do đó, nếu muốn làm một việc gì hay quyết định vấn đề gì đó, dù rất quen thuộc, cũng đừng vội vàng tin tưởng vào những kinh nghiệm có sẵn mà hãy đặt ra những câu hỏi; tìm ra góc độ khác cho vấn đề và thử tìm cách giải quyết theo hướng khác, cách thức khác.
3. Sợ thất bại:
Sợ thất bại cũng là nguyên nhân chính gây cản trở tư duy sáng tạo. Những cách nghĩ mới, cách làm mới thường phải đối mặt với nhiều rủi ro và nguy cơ thất bại cao. Người mang tâm lý này thường nghĩ: tôi không phải là người sáng tạo, tôi không thể giải quyết vấn đề đó, tôi sợ phải trả giá cho sự thất bại. Họ thường cảm thấy không đủ khả năng để giải quyết vấn đề gặp phải: không đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng sáng tạo… Họ gác súng ngay trước khi trận chiến bắt đầu, từ chối vấn đề khi chưa hề giải quyết nó. Do đó, nhiều người chọn cách an toàn là cứ làm theo cái sẵn có.
Chính suy nghĩ như vậy sẽ biến người ta trở thành kẻ nhát gan, không dám khám phá, thử những cái mới, dần dần sẽ làm thui chột sự tư suy sáng tạo của chính mình. Bên cạnh đó, tính lười biếng cũng khiến chúng ta không suy nghĩ, mà không suy nghĩ thì không thể suy nghĩ sáng tạo…Thực chất, ai cũng có năng lực sáng tạo, chỉ cần có đủ niềm tin và sự dũng cảm, ai cũng có thể tìm ra lời giải cho những vấn đề mà mình gặp phải, ít nhất là những vấn đề liên quan đến cuộc sống cá nhân.
4. Sợ bị chê cười:
Khi tạo ra một cái gì đó mới. Người có tâm lý ngại thay đổi thường quan tâm đến việc người khác sẽ nghĩ gì và lo sợ các ý tưởng của mình bị đánh giá như “trò trẻ con”. Thực tế của cuộc sống, những ý tưởng mới ra đời thường có thể bị chế nhạo, chỉ trích. Những người có sáng tạo là những người hay có những ý tưởng khác người và ít được sự chấp thuận của mọi người xung quanh. Chính vì tâm lý sợ bị chê cười nên nhiều ý tưởng chỉ được dừng lại ở suy nghĩ và không dám bộc lộ ra, lâu dần nó khiến người ta trở nên tự ti với chính những ư tưởng, sáng tạo của mình, không muốn nghĩ đến những ý tưởng được cho là điên rồ đó nữa.
Do đó, cần lưu ý: những tiến bộ được thực hiện chỉ bởi những người có đủ sức mạnh để chịu đựng sự cười chê. Khi vượt qua tâm lý ngại thay đổi, mỗi cá nhân tự cởi bỏ những ràng buộc cho tư duy sáng tạo của mình.
5. Không muốn chấp nhận những ý tưởng khác thường:
Nhiều người ngại tư duy sáng tạo, chỉ thích làm theo người khác, chỉ bám theo đuôi của những ý tưởng có sẵn trước đó của người khác mà không muốn động não, tư duy để tìm ra những sáng kiến, ý tưởng mới cho công việc cũng như trong cuộc sống. Những người có tư duy sáng tạo là những người dám vượt qua những quy tắc, chuẩn mực có sẵn trước đó.
Còn những người chỉ dám thu mình, chỉ để đảm bảo an toàn cho mình sẽ không thể có những ý tưởng hay, khác lạ, không dám đột phá vượt ra ngoài những quy tắc. Những người đó sẽ khó có được những ý tưởng hay, hướng giải quyết công việc khác cho dù họ có thể đã nghĩ đến nó. Họ luôn giải quyết mọi việc theo hướng mà người khác đã làm; thích làm theo kiểu “nước tới đâu bắc cầu tới đó” để giải quyết công việc.
6. Chấp nhận sự sẵn có:
Đó là khi con người chỉ muốn đi theo một lối mòn đã được nhiều người đi trước đó hoặc chính họ là người cũng đã nhiều lần đi trên con đường đó. Họ không muốn sáng tạo ra một con đường mới vì nhiều lý do khác nhau. Hơn nữa sự có sẵn lúc nào cũng mang lại cảm giác an toàn, cho dù nó có cũ đến mức nào. Nếu có tư tưởng chấp nhận sự có sẵn như vậy, khó có thể sáng tạo. Hãy nhanh chóng thay đổi, nếu không đó sẽ là rào cản rất lớn đối với việc tư duy sáng tạo.
Đó là sức ỳ của tư duy do đã quen suy nghĩ theo cái có sẵn. Ngoài ra, tính lười biếng cũng khiến con người không suy nghĩ, mà không suy nghĩ thì không thể suy nghĩ sáng tạo. là xóa bỏ khỏi tâm trí cụm từ “Không thể có ý tưởng/ cách/giải pháp nào hay hơn nữa!”. Đừng luôn tuân theo những cách giải quyết vấn đề đã có, đừng chấp nhận những ý tưởng mà ai cũng nghĩ ra được, đừng hài lòng với sản phẩm hiện đang có. Luôn đặt ra cho mình một đòi hỏi là hãy tìm tòi điều gì đó mới hơn, lạ hơn, “độc” hơn.
7.3. Các phương pháp tư duy sáng tạo
Có khá nhiều phương pháp tư duy sáng tạo đã được các nhà khoa học cụ thể hóa và đúc kết lại. Có thể liệt kê ra một số phương pháp được sử dụng khá phổ biến như sau: 7.3.1. Phương pháp Đối tượng tiêu điểm Phương pháp này được giáo sư trường đại học Berlin F. Kunze đưa ra những năm 1926, với tên gọi ban đầu là phương pháp danh mục (catalogue), và được nhà khoa học Hoa Kỳ C. Whiting hoàn thiện. Phương pháp đối tượng tiêu điểm là một phương pháp tích cực hóa tư duy trong khoa học sáng tạo.Ý tưởng của phương pháp là cải tiến đối tượng ta nghiên cứu cải tiến (được gọi là đối tượng tiêu điểm),bằng cách “lai hóa”, chuyển giao những tính chất, chức năng của những đối tượng ngẫu nhiên khác vào đối tượng cần cải tiến. Các bước tiến hành phương pháp này bao gồm:
• Bước 1: Chọn đối tượng tiêu điểm cần cải tiến;
• Bước 2: Chọn 3,4 đối tượng ngẫu nhiên;
• Bước 3: Liệt kê vài đặc điểm về đối tượng được chọn;
• Bước 4: Kết hợp các đặc điểm của đối tượng được chọn với đối tượng tiêu điểm;
• Bước 5: Chọn lọc sự kết hợp khả thi từ các ý tưởng có ở bước 4.
Ví dụ: Một công ty sản xuất điện thoại di động cần sáng tạo sản phẩm điện thoại mới từ điện thoại với 3 chức năng cơ bản nghe, nói, nhắn tin. Áp dụng theo phương pháp “Lựa chọn đối tượng tiêu điểm”ta có:
• Bước 1: Chọn sản phẩm điện thoại di động;
• Bước 2: Chọn 3 đồ vật ngẫu nhiên:
Ví dụ:
a. Máy tính,
b. Bông hồng,
c. Đồng hồ
• Bước 3: Phân tích đặc điểm đối tượng: Máy tính Bông hồng Đồng hồ Kết nối internet Thơm Dạ quang Trò chơi Nhiều màu sắc Đeo tay Nghe nhạc Hương thơm Mạ vàng Đồ họa Trang trí Hình tròn Chạy Window Không ngấm nước Có kim
• Bước 4: Kết nối các ý tưởng trong bảng với Điện thoại đang có, có thể thu được kết quả: Điện thoại hình dáng bông hoa; Điện thoại tỏa mùi hương; Điện thoại chạy phần mền Window; Điện thoại kết nối Internet; Điện thoại thay đổi màu sắc; điện thoại có dạ quang; điện thoại đeo tay…
• Bước 5: Lựa chọn một vài ý tưởng phù hợp nhất trong các ý tưởng ở bước 4 để phát triển sản phẩm.
7.3.2. Phương pháp Tư duy hệ thống
Nhân loại đã thành công qua thời gian trong việc phát triển tri thức, giải quyết vấn đề bằng phương pháp phân tích để hiểu vấn đề. Phương pháp này thường nghiên cứu từng phần riêng lẻ rồi rút ra kết luận về cái toàn thể. Đó là cách tư duy tuyến tính. Cách tư duy tuyến tính này đang ngày một trở nên không hiệu quả khi áp dụng cho các vấn đề hiện đại.Điều này là vì hầu hết các vấn đề ngày nay đều có tương quan với nhau theo cách không tuân theo quy luật tuyến tính. Phương thức để giải quyết các vấn đề hiện đại phải là cách tư duy hữu cơ và phi tuyến, thường được đề cập đến như là phương pháp tư duy hệ thống.
Cách tiếp cận tư duy hệ thống về cơ bản khác với cách tiếp cận phân tích truyền thống. Đặc điểm chủ yếu của phương pháp tư duy hệ thống là ở cách nhìn toàn thể và do cách nhìn toàn thể mà thấy được những thuộc tính tương tác của hệ thống. Các thuộc tính tương tác là của toàn thể mà từng thành phần không thể có. Điều này đôi khi làm này sinh những kết luận khác biệt đáng lưu ý so với kết luận do cách phân tích truyền thống đem lại. Đặc trưng của tư duy hệ thống làm cho nó rất có hiệu quả trong hầu hết các kiểu vấn đề khó giải quyết nhất, nhất là những vấn đề bao gồm các yếu tố phức tạp, những vấn đề phụ thuộc rất nhiều vào quá khứ hay hành động của các yếu tố khác và những hành động bắt nguồn từ sự phối hợp không hiệu quả giữa những yếu tố cấu thành.
7.3.3. Phương pháp Thử và Sai (Trial & Error)
Nghiên cứu và làm các thí nghiệm về tư duy sáng tạo, các nhà tâm lý nhận thấy, phẩn lớn mọi người khi có vấn đề thường nghĩ ngay đến việc áp dụng các ý tưởng sẵn có trong trí nhớ. Sau khi phát hiện ra những “phép thử” đó sai, người giải tiến hành các phép thử khác.
Hình 7.4: Thử và sai: Phương pháp cổ điển Nguyên tắc của phương pháp “Thử và Sai” là tuần tự thử triển khai các giả thuyết, loại bỏ dần các giả thuyết không đúng cho đến khi xác định được giải pháp tốt nhất. Phương pháp này được ứng dụng phổ biến trong cuộc sống khi đối diện với vấn đề mới phát sinh và cả trong nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được thực hiện tuần tự qua một số bước và lặp lại cho đến khi đạt được kết quả mong muốn.
-Bước 1- Thử (Trial): Triển khai thử một giả thuyết được xem là có triển vọng.
-Bước 2- Sai (Error): Sau khi thử triển khai giả thuyết đã chọn mà kết quả thu được không như ý, hay không đạt mục tiêu đề ra, chuyển qua bước tiếp theo.
-Bước 3- Phân tích: Phân tích tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cái sai.
-Bước 4- Sửa sai: Xây dựng một giả thuyết mới có khả năng đạt được kết quả, tránh những cái sai của giả thuyết trước.
-Bước 5- Lặp lại bước 1, và các bước tiếp theo với giả thuyết mới như một chu kỳ mới cho đến khi đạt được mục tiêu.
Nhược điểm cơ bản của phương pháp này là:
1. Số phép thử và sai có thể nhiều, gây ra lãng phí trí lực, sức lực, phương tiện, thời gian, tốn kém và không thúc đẩy phát huy tư duy đột phá.
2. Các phép thử, cách đánh giá đúng – sai có thể mang tính chủ quan của con người, nhận định “sai”có thể mang tính chủ quan (đôi lúc cái “sai” nếu phát triển tiếp, có thể đi đến lời giải đúng).
3. Sự tồn tại của tính ì tâm lý.Kiến thức và kinh nghiệm riêng của người giải luôn có khuynh hướng đưa người giải đi theo con đường mòn đã hình thành trong quá khứ.
7.3.4. Phương pháp Động não
Động não (brainstorming), còn gọi là não công hay tập kích não là một phương pháp dùng để phát triển nhiều giải đáp sáng tạocho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, từ đó, rút ra rất nhiều giải pháp căn bản cho nó. Từ động não được đề cập đầu tiên bởi Alex Faickney Osborn năm 1939. Ông đã miêu tả động não như là: “Một kỹ thuật hội ý bao gồm một nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến của nhóm người đó nảy sinh trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định”.
Ngày nay, phương pháp này không nhất thiết phải cần có nhiều người mà một người cũng có thể tiến hành. Tuy nhiên, số lượng người tham gia nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn diện hơn, nhờ vào nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, trình tự khác nhau của mỗi người. Với phương pháp này, các thành viên được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng, nhằm tạo ra “cơn lốc” các ý tưởng.Các ý kiến về vấn đề được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng nhiều càng tốt, không giới hạn. Hình 7.6: Thu thập ý kiến với phương pháp động não Các điểm chính cần lưu ý khi sử dụng phương phápđộng não:
– Xác định vấn đề một cách thật rõ ràng, phải đưa ra được các chuẩn mực cần đạt được. Trong bước này thì vấn đề sẽ được cô lập hoá với môi trường và các yếu tố khác.
– Tập trung vào vấn đề: tránh các ý kiến hay các điều kiện bên ngoài có thể làm lạc hướng buổi làm việc. Trong giai đoạn này người ta thu thập tất cả các ý kiến có liên quan trực tiếp đến vấn đề cần giải quyết (thường có thể tập hợp viết tất cả các ý kiến lên giấy hoặc bảng).
– Không đưa bất kì một bình luận hay phê phán đúng sai gì về các ý kiến trong lúc thu thập. Những ý tưởng thoáng qua trong đầu nếu bị các thành kiến hay phê bình sẽ dể bị gạt bỏ và như thế sẽ làm mất sự huy động tổng lực cuả buổi động não.
– Khuyến khích tinh thần tích cực. Mỗi thành viên đều cố gắng đóng góp và phát triển các ý kiến. Cố gắng đưa ra càng nhiều ý càng tốt về mọi mặt cuả vấn đề, kể cả những ý kiến không thực tiễn hay ý kiến khác thường.
7.3.5. Phương pháp DOIT
DOIT – Một Phương pháp Đơn Giản để Sáng Tạo.Phương pháp này được mô tả trong quyển sách “The Art of Creative Thinking” (Nghệ Thuật Tư Duy Sáng Tạo) của Robert W. Olson năm 1980.
DOIT là chữ viết tắt bao gồm:
D – Define Problem (Xác định vấn đề);
O – Open Mind and Apply Creative Techniques (Cởi mở ý tưởng và áp dụng các kỹ thuật sáng tạo);
I – Identify the best Solution (Xác định giải pháp tối ưu);
T- Transform (Chuyển đổi).
Cụ thể hóa các bước thực hiện phương pháp này như sau:
– Xác Định Vấn Đề:
+ Kiểm lại rằng bạn nắm vững vấn đề, không chỉ thấy dấu hiệu cuả nó. Hãy hỏi lập đi lập lại rằng tại sao vấn đề tồn tại, cho tới khi nào bạn nhận ra cội rể cuả vấn đề.
+ Hãy nắm rõ các giới hạn biên cuả vấn đề. Rút ra từ các đối tượng cái mà ta muốn đạt tới và cái gì ràng buộc những hoạt động cuả ta.
+ Hãy chia nhỏ vấn đề lớn ra thành nhiều cho tới khi tất cả các phần nhỏ đều có thể xác định, kiểm soát được.
– Cởi mở ý tưởng và áp dụng các kỹ thuật sáng tạo:
+ Một khi đã nắm rõ vấn đề cần giải quyết, thì đó là lúc đã có đủ điều kiện để bắt đầu đề xuất ra các lời giải khả dĩ. Hãy chấp nhận tất cả những ý tưởng mới lạ,sáng tạo nảy sinh.
+ Ở giai đoạn này, không cần đánh giá về các ý tưởng được đưa ra (cởi mở ý tưởng). Thay vào đó, hãy cố đưa ra càng nhiều càng tốt các ý kiến khả dụng (và cả những ý có vẻ tồi, nhưng thật ra chúng có thể châm ngòi cho các ý tưởng tốt về sau). Có thể dùng tất cả các phương pháp tư duy đã đề cập trước đây để tìm tất cả các ý tưởng có thể là lời giải đúng cho vấn đề.
Mỗi phương pháp sẽ cho ta những điểm mạnh và những điều lợi ích. Có thể tham vấn nhiều ngươì có nền tảng học vấn, có hiểu biết, và có mức độ thông minh khác nhau cho ý kiến về các lời giải. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có cách tiếp cận khác nhau và cái nhìn khác nhau về cùng một vấn đề, các ý kiến dị biệt, khác thường sẽ góp phần vào quá trình chung
– Xác định giải pháp tối ưu : Trong bước này hãy lựa ra ý tưởng hay nhất trong các ý tưởng đã nêu ra. Thường thì ý tưởng tốt nhất được nhận ra một các hiển nhiên. Nhưng nhiều lúc, một ý kiến tiềm ẩn lại có giá trị khi được xem xét, phát triển chi tiết; và có thể có giá trị hơnnhững ý kiến đã đề ra, lựa chọn trước đó. Hãy xem xét các giới hạn biên tiềm tàng (trong trường hợp xấu nhất cũng như tốt nhất) có thể xảy ra khi thực thi, áp dụnggiải pháp được lựa chọn. Điều chỉnh lại giải pháp nếu cần để giảm nhẹ hết sức hậu quả xấu tiềm tàng và tăng cường tối đa những ảnh hưởng tích cực tiềm năng.
– Chuyển đổi: Sau khi xác định và đưa ra giải pháp cho vấn đề, thì bước cuối cùng là thực hiện giải pháp. Biến nó thành hành động. Bước này không chỉ bao gồm sự phát triển sản phẩm bền vững,mà còn bao gồm cả các mặt khác (như là triển khai và ứng dụng nêú vấn đề có liên quan đến việc nghiên cứu ứng dụng). Điều này có thể cần nhiều thì giờ và công sức. Có rất nhiều nhà sáng tạo thất bại trong giai đoạn này. Họ sẽ có nhiều vui sướng để sáng chế ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới. Nhưng họ lại thất bại trong việc phát triển, áp dụng chúng.
7.3.6. Phương pháp 5W1H
5W1H viết tắt từ các từ sau:
What? (Cái gì?),
Where? (Ở đâu?),
When? (Khi nào?),
Why? (Tại sao?),
How? (Như thế nào?),
Who? (Ai?)
Ví dụ: Khi nghiên cứu một cuốn sách chuyên ngành, đối diện với một công việc, thực hiện một ý tưởng, cần đặt những câu hỏi sau:
– What? (Cái gì?):
+ Cái đó là gì?
+ Cuốn sách này viết về cái gì?
+ Công việc này là gì? ……
– Where? (Ở đâu?):
+ Cuốn sách nằm trong lĩnh vực nào, thuộc loại sách nào?
+ Công việc diễn ra ở đâu?
+ Ý tưởng này sẽ được thuyết trình ở đâu?, …….
– When? (Khi nào?):
+ Bối cảnh của cuốn sách viết khi nào?
+ Sự kiện này xảy ra khi nào?
+ Khái niệm này bắt đầu xuất hiện khi nào? …….
– Why? (Tại sao?):
+ Tại sao phải nghiên cứu vấn đề này?
+ Tại sao tác giả cuốn sách lại lựa chọn cách sắp xếp như thế này?
+ Tại sao thí nghiệm này không diễn ra đúng như dự kiến? ……
– Who? (Ai?):
+ Ai là người viết cuốn sách này, viết cho ai?
+ Ai là người sẽ thực hiện công việc với tôi?
+ Ai đã nghiên cứu vấn đề này? ……
– How (Như thế nào?):
+ Công việc này sẽ được bắt đầu như thế nào?
+ Chiếc máy này hoạt động như thế nào?
+ Như thế nào là một công việc thành công? …….
Phương pháp tư duy 5W1H rất đơn giản nhưng lại tỏ ra rất hiệu quả nếu chúng ta sử dụng nó đúng đắn, khéo léo và thông minh. Việc tiếp cận giải quyết công việc nếu sử dụng hợp lý 5W1H sẽ khiến công việc đầy đủ, ít gặp thiếu sót. Sử dụng một cách sáng tạo có thể phát triển ý tưởng của bản thân. Công cụ 5W1H thoạt nhìn rất đơn giản nhưng lại tỏ ra rất hiệu quả nếu chúng ta sử dụng nó đúng đắn, khéo léo và thông minh.
Hiện nay phương pháp này còn được bổ sung thêm một số yếu tố để phát triển, ví dụ: 5W2H, 5W1H2C5M…Nhưng phương pháp này vẫn là nền tảng cơ bản nhất.
7.3.7. Phương pháp Bản đồ tư duy
Phương pháp bản đồ tư duy (mind map) được phát triển vào cuối thập niên 60 (cuả thế kỉ 20) bởi Tony Buzan. Nó được xem như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh cuả bộ não. Nó có thể dùng như một cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự diễn ra của một câu truyện) thì nó còn có khả năng liên lạc, liên hệ các tình tiết, dữ kiện với nhau. Nó sẽ tạo ra một cấu trúc của đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Để tạo ra một bản đồ tư duy, thường các bước được tiến hành như sau:
– Viết hay vẽ đối tượng xuống giữa trang giấy và vẽ một vòng bao bọc. Nếu dung từ, hãy cô đọng trong 1 từ khóa.
– Vẽ các “đường” phân nhánh xuất phát từ hình trung tâm cho các ý tưởng.
– Từ mỗi ý tưởng trên lại vẽ các phân nhánh mới cho các ý con.
– Từ các ý con này lại vẽ ra các phân nhánh chi tiết hõn.Tiếp tục phân nhánh cho ðến khi ðạt ðýợc giản ðồ chi tiết nhất.
Lýu ý: Khi tiến hành lập một bản đồ tư duy nên:
+ Sử dụng nhiều màu sắc.
+ Sử dụng hình ảnh minh họa nếu có thể thay cho chữ viết.
+ Nếu không thể dùng hình ảnh, cần dung một từ khóa.
+ Tâm trí nên để tự do tối đa để sáng tạo.
7.3.8. Phương pháp sáu chiếc mũ tư duy
“Six chiếc mũ tư duy” (Six Thinking Hats) là phương pháp do Edward de Bono đề xuất trong những năm 1980.
Đây là một phương pháp cực kỳ hiệu quả, giúp đánh giá sự việc từ nhiều góc nhìn khác nhau. Nhờ vậy, có thể hiểu rõ hơn mọi ngóc ngách của sự việc, nhận diện được những nguy cơ và cơ hội mà bình thường ta có thể không chú ý đến Từ đó, giúp đưa ra quyết định tốt hơn. Cách tiến hành phương pháp này là hãy lần lượt “đội” 6 chiếc mũ để đánh giá vấn đề.
Mỗi lần đội mũ màu khác là mỗi lần chuyển sang một cách tư duy mới:
– Mũ trắng:
mang hình ảnh của một tờ giấy trắng. Khi đội mũ trắng, ta sẽ đánh giá vấn đề một cách khách quan, dựa trên những dữ kiện bằng chứng, thông tin có sẵn. Đội mũ này có nghiã là “hãy cởi bỏ mọi thành kiến, mọi tranh cãi, cởi bỏ mọi dự định và hãy nhìn vào cơ sở dữ liệu”. Hãy nghiên cứu thông tin để tìm ra câu trả lời cho những điều bạn còn thắc mắc. – Mũ đỏ: mang hình ảnh của lửa đang cháy , con tim, dòng máu ấm áp. Khi đội mũ đỏ, bạn sẽ đánh giá vấn đề dựa trên trực giác và cảm xúc. Hãy cố gắng đoán biết cảm xúc của người khác thông qua những phản ứng của họ Khi tưởng tượng đang đội chiếc mũ đỏ, chỉ cần đưa ra các cảm giác, cảm xúc, trực giác, những ý kiến không có chứng minh hay giải thích, lí lẽ của mình về vấn đề đang giải quyết.
– Mũ đen:
mang hình ảnh của đêm tối, đất bùn. Người đội mũ đen sẽ liên tưởng đến các điểm yếu, các lỗi, sự bất hợp lý, sự thất bại, sự phản đối, thái đội bi quan. Vai trò của chiếc mũ đen là giúp chỉ ra những điểm yếu trong quá trình suy nghĩ của chúng ta. Chiếc mũ đen để dùng cho “sự thận trọng”, nó chỉ ra các lỗi, các điểm cần lưu ý, các mặt yếu kém, bất lợi của vấn đề hay dự án đang tranh cãi.Chiếc mũ đen đóng vai trò hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho dự án của chúng ta tránh được các rủi ro. – Mũ vàng: mang hình ảnh của ánh nắng mặt trời, sự lạc quan, các giá trị, các lợi ích.Khi đội mũ vàng, hãy suy nghĩ một cách tích cực, lạc quan. Nó sẽ giúp ta thấy hết được những lợi ích và cơ hội mà công việc, dự án đó mang lại.
– Mũ xanh lá cây: mang hình ảnh cây cỏ xanh tươi, sự nảy mầm, đâm chồi, phát triển;. tượng trưng cho sự sinh sôi, sáng tạo. Lối tư duy tự do và cởi mở khi đội mũ xanh sẽ giúp tìm ra những giải pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề.
– Mũ xanh dương mang hình ảnh của bầu trời xanh lồng lộng với con mắt bao quát. Chiếc mũ xanh da trời sẽ có chức năng giống như nhạc trưởng. Đây là chiếc mũ người chủ tọa đội để kiểm soát tiến trình cuộc thảo luận. Vai trò của người đội nón xanh da trời là:
+Xác định trọng tâm và mục đích thảo luận cho nhóm (Chúng ta ngồi ở đây để làm gì? Chúng ta cần tư duy về điều gì? Mục tiêu cuối cùng là gì?)
+ Cuối cùng, tập hợp mọi ý kiến, tóm tắt, kết luận và ra kế hoạch (Chúng ta đã đạt được gì qua buổi thảo luận? Chúng ta có thể bắt đầu hành động chưa? Chúng ta có cần thêm thời gian và thông tin để giải quyết vấn đề này?) “6 chiếc mũ tư duy” là phương pháp lý tưởng để đánh giá tác động của một quyết định từ nhiều quan điểm khác nhau. Nó giúp kết hợp những yếu tố thuộc về cảm tính với những quyết định lý tính và khuyến khích sự sáng tạo khi ra quyết định.
Vì mọi người sẽ cùng tập trung giải quyết vấn đề từ cùng một góc nhìn, do đó sẽ không xảy ra xung đột do những quan điểm khác nhau. Nhờ vậy, kế hoạch đề ra sẽ nhất quán, hợp lý và chặt chẽ hơn
7.4. Rèn luyện tư duy sáng tạo
7.4.1. Một số thủ thuật kích thích tư duy sáng tạo
Có nhiều cách để kích thích sự sáng tạo, có thể liệt kê một số thủ thuật như sau:
– Tin tưởng mình có khả năng sáng tạo:
Trở lực lớn nhất đối với việc kích thích sức sáng tạo là tự cho mình không có sức sáng tạo. Họ cho rằng sức sáng tạo là cái gì không thể với tới được. Kỳ thức thì khả năng sáng tạo không có gì thần bí cả. Thật ra đó cũng chỉ là liên tưởng bình thường mà thôi.Hãy tập trung vào những gì mong muốn, cần dẹp bỏ tất cả những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài.
– Nắm bắt kịp thời ý tưởng:
Một quyển sổ bỏ túi với một cây bút sẽ rất có ích, bởi vì ta có thể nắm bắt, ghi lại được mọi ý tưởng bất chợt đến với mình. Những gì được viết lại sẽ là các giải pháp của ta sau này. Hãy nắm giữ, duy trì và áp dụng chúng.Ngay cả khi đang đi, dạo chơi, hay thậm chí ở trạng thái ngủ đang thì tiềm thức vẫn tiếp tục hoạt động. Chính trong lúc này linh cảm liên quan đến vấn đề có thể xuất hiện, cho nên cần có giấy bút, máy ghi âm, để khi nào linh cảm chợt đến thì ghi ngay lại.
– Đa dạng hóa phương án:
Không thoả mãn với hiện trạng, cần phải thoát khỏi nếp nghĩ cũ kỹ, lối mòn.Nếu cứ bằng lòng với hiện trạng thì không thể nào có sức sáng tạo đột phá được. Luôn tự hỏi: “Phương pháp này hay nhưng liệu còn có phương pháp nào tốt hơn nữa không?”. Muốn tìm được nhiều cách giải quyết bên cạnh tự tư duy các cách giải quyết mà mình nghĩ ra được, cần tham khảo thêm những người mà mình cho là có thể góp những ý kiến thiết thực.
– Thay đổi môi trường mới:
Việc thay đổi môi trường mới có quan hệ mật thiết với sức sáng tạo. Do vậy, khi có thời gian nên đi dạo trong công viên hoặc trên bãi biển để kích thích sức sáng tạo. Có thể về sống vài ngày ở nông thôn cũng có thể làm nảy sinh những ý tưởng mới mẻ.
-Tự tin vào bản thân:
Sự tự tin có thể làm cho bản thân được giải thoát khỏi áp lực, tạo ra sự xuất hiện tư duy mới, và có thể sẽ nảy sinh các giải pháp.
– Hình thành nhóm nghiên cứu:
Nên tập hợp nhau lại thành nhóm cùng nghiên cứu một vấn đề, mỗi người có thể tuỳ ý đưa ra những phương án giải quyết khác nhau.
7.4.2. Trau dồi tư duy sáng tạo
Cần trau dồi, rèn luyện tư duy sáng tạo mỗi ngày thông qua các hoạt động tập luyện não bộ, ví dụ như:
– Rèn sự tập trung:
Khả năng tập trung là yếu tố rất cần thiết gần như trong mọi hoạt động hàng ngày của con người. Biết tập trung tốt sẽ giúp bạn có thể duy trì sự chú ý ngay cả khi xung quanh rất ồn ào và liên tục bị ngắt quãng để hoàn thành nhiều hoạt động trong cùng một thời điểm. Ta có thể cải thiện năng lực tập trung bằng cách đơn giản là thay đổi những thói quen hàng ngày. Chẳng hạn, bạn có thể thay đổi đường đi tới công ty hay sắp xếp lại bàn làm việc, cả hai cách đó đều sẽ bắt trí óc bạn phải tỉnh táo hơn để thoát khỏi những thói quen.
– Rèn ngôn ngữ:
Các hoạt động ngôn ngữ sẽ buộc chúng ta phải nhận diện, ghi nhớ và hiểu ý nghĩa các từ vựng. Chúng cũng sẽ giúp ta rèn luyện kỹ năng ngữ pháp, sự trôi chảy trong khi nói, viết và tăng lượng từ vựng. Điều này giúp ta xây dựng kỹ năng ngôn ngữ và dễ dàng vận dụng những từ ngữ mới trong cuộc sống hàng ngày cũng như công việc.
– Nhận thức thị giác:
Chúng ta đang sống trong một thế giới 3 chiều đầy màu sắc. Việc phân tích các thông tin về mặt thị giác là điều cần thiết và có thể được thực hiện ngay trong môi trường sống của bạn. Tập luyện trí nhớ và rèn luyện cho trí não khả năng tập trung vào những điều xung quanh bạn.
– Tư duy tích cực:
Tư duy tích cực là điều giúp cho con người có sự tự tin, để từ đó có thể khám phá ra những tiềm năng vô tận của bản thân. Nhờ các năng lượng mà ta gọi là nội lực này được tác động khiến cho con người có thể phát triển, vượt qua mọi thách thức. Ngược lại tư duy tiêu cực làm con người trở nên sợ hãi, mất niềm tin vào bản thân, dễ bị áp lực từ bên ngoài để trở nên lệ thuộc, tự đánh mất phẩm chất của con người.
– Tăng cường sức khỏe:
Sức khỏe rất cần cho
Chương trước: Kỹ năng giao tiếp
Xem danh sách chương: https://vinabook.edu.vn/ky-nang-mem-chuong-1-mo-dau
Hoặc thu nạp thật nhiều kiến thức về kỹ năng mềm để chuẩn bị khởi nghiệp thành công.
…………………………………
KỸ NĂNG MỀM – CHÌA KHÓA ĐỂ THÀNH CÔNG (Sách – Giáo trình)
Công ty VINABOOK hân hạnh tài trợ chương trình này. Giá bìa: 160.000 VNĐ – Hotline: 0938090115
sáng tạo. Sáng tạo tốt, trí tuệ thông minh ở trong sức khỏe sáng tạo. Bộ não là cơ sở của trí tuệ, của sáng tạo. Sức khỏe dồi dào mới có đủ chất dinh dưỡng, năng lượng cung cấp cho hoạt động của não bộ.